Thứ Tư, 22 tháng 10, 2014

GIẤY GỬI HÀNG ĐƯỜNG BIỂN (SEAWAY BILL)

GIẤY GỬI HÀNG ĐƯỜNG BIỂN (SEAWAY BILL)


Trong chuyên chở hàng hoá bằng đường biển, loại chứng từ rất thông dụng mà người chuyên chở dùng để cấp cho người xếp hàng khi hàng hoá đã được xếp lên tàu là vận đơn đường biển (Ocean Bill of Lading, viết tắt là OBL hay B/L). Đây là một chứng từ rất quan trọng trong hàng hải nói riêng và mua bán quốc tế nói chung. Tuy vậy, cùng với quá trình phát triển của hàng hải và thương mại quốc tế, B/L dần dần bộc lộ nhiều nhược điểm:
            Thứ nhất, không có B/L gốc để nhận hàng khi tàu đã đến cảng dỡ dàng vì hành trình của hàng hoá ở trên biển đôi khi ngắn hơn thời gian gửi B/L từ cảng xếp hàng đến cảng dỡ hàng.
           Thứ hai, B/L không thích hợp với việc áp dụng các phương tiện truyền số liệu hiện đại tự động (Fax, telefax) bởi vì việc sử dụng B/L đòi hỏi phải có chứng từ gốc.
           Thứ ba, việc in ấn B/L đòi hỏi nhiều công sức và tốn kém.
           Thứ tư, sử dụng B/L có thể gặp rủi ro trong việc giao nhận nếu vận đơn bị mất hay bị mất cắp.
Cùng với quá trình đổi mới và đơn giản hoá chứng từ thương mại thì vận đơn là một trong những chứng từ được quan tâm, và một yêu cầu tất yếu là phải có một chứng từ khác thay thế được cho B/L và có chức năng tương tự B/L – Chứng từ đó là Seaway Bill, giấy gửi hàng đường biển.

Seaway bill là gì?
Đó là chứng từ không chuyển nhượng được, là bằng chứng xác nhận việc chuyên chở hàng hoá bằng đường biển và xác nhận việc nhận hàng để xếp hoặc đã xếp bởi người chuyên chở (định nghĩa này của Uỷ ban kinh tế Châu Âu của Liên hợp quốc, được thông qua tại Giơ-ne-vơ 3/1970).
Như vậy có thể nói:  Seaway Bill là B/L nhưng chỉ có 2 chức năng đầu của B/L:
-          Là bằng chứng của hợp đồng vận tải đã được ký kết giữa người chuyên chở và người xếp hàng.
-          Là biên lai nhận hàng để chở do người chuyên chở cấp cho người xếp hàng Seaway Bill không có chức năng thức 3 của B/L là chứng từ sở hữu hàng hoá.
Về mặt hình thức, Seaway Bill chỉ có một mặt, giống như B/L rút gọn không có mặt sau. Ở mặt trước của Seaway Bill người ta dẫn chiếu đến nguồn luật điều chỉnh Seaway Bill (các qui tắc, công ước quốc tế, luật quốc gia).
Sử dụng Seaway Bill bó thể khắc phục những tồn tại của B/L?
- Khi sử dụng Seaway Bill, người nhận hàng có thể nhận được hàng hoá ngay khi tàu đến cảng dỡ hàng mà không nhất thiết phải xuất trình Seaway Bill  vì Seaway Bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá. Hàng hoá sẽ được người chuyên chở giao cho người nhận hàng trên cơ sở những điều kiện của người chuyên chở hoặc một tổ chức quản lý hàng hoá tại cảng đến. Điều này khắc phục được nhược điểm vốn có của B/L là khi muốn nhận hàng phải xuất trình B/L gốc. Khi B/L chưa đến, muốn giao nhận hàng, phải chờ B/L hoặc buộc giao hàng không có B/L. Điều này bắt buộc chủ hàng phải nhờ đến sự bảo lãnh của ngân hàng và đương  nhiên chủ hàng phải ký quỹ ở ngân hàng với số tiền tương đương hoặc lớn hơn trị giá hàng hoá chủ hàng nhận được. Rõ ràng chủ hàng gặp nhiều khó khăn, vốn bị ự đọng tại ngân hàng và chi phí tăng lên một cách vô lý.
- Seaway Bill không phải là chứng tờ sở hữu hàng hoá, do đó người ta không nhất thiết phải gửi ngay bản gốc cho người nhận hàng ở cảng đến, trái lại người xuất khẩu có thể gửi bản sao Seaway Bill thông qua hệ thống truyền số liệu tự động (fax. Telefax). Như vậy, đồng thời với việc xếp hàng lên tàu người xuất khẩu có thể gửi ngay lập tức Seaway Bill cho người nhận hàng trong vòng vài phút. Người nhận hàng cũng như người chuyên chở không phải lo lắng khi giao nhận mà không có chứng từ. Điều này có ý nghĩa là Seaway Bill rất phù hợp với việc áp dụng truyền tài liệu thông qua hệ thống truyền số liệu tự động mà khi sử dụng B/L không thể thực hiện được. Muối gửi B/L gốc người ta chỉ có cách gửi nhanh nhất là bằng máy bay, vì khi thông qua fax, telefax, B/Le gốc bị mất gốc trở thành bản sao và không có giá trị nhận hàng.
- Seaway Bill chỉ cho phép giao hàng cho một người duy nhất khi họ chứng minh họ là người nhận hàng hợp pháp. Điều này giúp cho các bên giữ quan hạn chế được rất nhiều rủi ro trong việc giao nhận hàng, và người gửi hàng cũng như người nhận hàng không phải lo lắng bị người khác lợi dụng Seaway Bill trong trường hợp việc bị mất hay bị thất lạc so với B/L.
- Khi  sử dụng Seaway Bill, việc in các điều khoản  bằng chữ rất nhỏ ở mặt sau được thay thế bằng việc dẫn chiếu đến càc điều kiện, quy định liên quan đến vận chuyển ở mặt trước bằng một điều khoản ngắn gọn. Mặt khác khi dùng Seaway Bill người ta không cần nhiều bản gốc như B/L nên chỉ phát hành 1 bản gốc. Điều này không những làm giảm chi phí in ấn mà còn phù hợp với x hướng đơn giản hoá chứng từ thương mại trong buôn bán quốc tế hiện nay.
- Cuối cùng, trên Seaway Bill không in tên và biểu tượng của từng hãng tàu riêng biệt. Khi sử dụng, người lập Seaway Bill mới điền tên và địa chỉ của người chuyên chở vào. Điều này giúp cho các Công ty không phải mua dự trữ các chứng từ mẫu – Thật là tiện lợi.

Seaway Bill, những hạn chế
Sử dụng Seaway Bill thay cho B/L không phải dễ dàng phổ cập ngay được, nguyên nhân do sự phát triển không đồng đều giữa các nước, do tập quán, do chính Seaway Bill chưa hoàn thiện, cụ thể:
- Thứ nhất: Seaway Bill là chứng từ không chuyển nhượng được, có nghĩa là không thực hiện được việc bán hàng hoá bằng cách ký hậu chuyển nhượng như B/L. Seaway Bill chỉ được ký phát cho một người (hoặc một Công ty) nhận hàng. Điều này cản trở mua bán quốc tế, nếu người nhận hàng không phải là người mua hàng cuối cùng.
- Thứ hai, sự nhận biết ra người nhận hàng theo Seaway Bill là việc phức tạp khi người chuyên chở và người nhận hàng là người xa lạ, mang quốc tịch khác nhau.
- Thứ ba, luật quốc gia của một số nước và công ước quốc tế chưa thừa nhận Seaway Bill như là một chứng từ giao nhận hàng.
- Thứ tư, do chưa được phổ cập nên phần lớn các hợp đồng mua bán vẫn thừa nhận B/L như một bằng chứng duy nhất chứng minh người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua
- Thứ năm, việc áp dụng Seaway Bill gắn liền với việc đổi mới trang thiết bị văn phòng và sử dụng kỹ thuật truyền tin hiện đại gây khó khăn về mặt tài chính cho doanh nghiệp.
- Thứ sáu, bản tính cố hữu của con người là không muốn từ bỏ những gì đã gắn bó với mình dù không còn hợp lý nữa, trong khi B/L đã được sử dụng hơn 150 năm và cho đến nay nó vẫn mang những giá trị thiết thực.
- Thứ bảy, quan điểm của người XNK, Công ty bảo hiểm, ngân hàng, các tổ chức hữu quan của các nước rất khác nhau về Seaway Bill. Nhiều nước và tổ chức cho rằng việc áp dụng Seaway Bill có thể không an toàn cho hàng hoá bằng B/L truyền thống. Vì vậy, khi kê khai hàng hoá Hải quan vẫn yêu cầu phải xuất trình B/L và các ngân hàng vẫn yêu cầu phải có B/L gốc khi thanh toán tiền hàng.
Vì những vấn đề trên, Seaway Bill hiện tại chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi:
-          Gửi hàng từ Công ty tới chi nhánh và ngược lại
-          Gửi hàng trên những đoạn đường ngắn và/hoặc có sự chấp nhận của ngân hàng và các cơ quan hữu quan.
-          Gửi hành lý cá nhân, hàng mẫu, hàng triển lãm, hàng hoá không được bán khi đang vận chuyển và không phải thanh toán tiền hàng.
Các qui tắc điều chỉnh Seaway Bill
Cũng giống như B/L, Seaway Bill đòi hỏi phải có các qui tắc, công ước quốc tế điều chỉnh, có thể liệt kê ra đây các qui tắc:
-          Qui tắc thống nhất áp dụng cho giấy gửi hàng hoặc các chứng từ khác có giá trị tương đương của Uỷ ban Hàng hải quốc tế.
-          Các công ước quốc tế về B/L
-          Luật quốc gia của các nước.
Tuy nhiên, đến nay chưa có một qui tắc quốc tế về Seaway Bill nào có hiệu lực. Thực tế ở mặt trước của Seaway Bill, chúng ta thấy nguồn luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến Seaway Bill được dẫn chiếu là Công ước Brussels 1924, Nghị định thư 1968. Song việc áp dụng các công ước này cho Seaway Bill còn rất nhiều ý kiến trái ngược nhau – Điều đó cản trở sự áp dụng một cách rộng rãi Seaway Bill như là một chứng từ thay thế B/L.
Quan điểm của ngân hàng
Muốn Seaway Bill được áp dụng rộng rãi thì ngoài sự nỗ lực của các tổ chức hàng hải, đòi hỏi phải có sự hợp tác ủng hộ của các tổ chức có liên quan như bảo hiểm, chủ hàng, đặc biệt là các ngân hàng.
Thep UCP 400 (qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC), các ngân hàng chỉ chấp nhận thanh toán theo thư tín dụng (L/C) khi người gửi hàng xuất trình vận đơn đường biển thoả mãn yêu cầu “Một bộ B/L hoàn hảo, đã xếp hàng” trừ khi có quy định nào khác về Seaway Bill. Do vậy, sử dụng Seaway Bill gặp phải một trở ngại lớn.
Khác với UCP 400e, UCP 500 (có hiệu lực từ 01/1/1994) đã cho phép chấp nhận theo tín dụng chứng từ một Seaway Bill không có giá trị chuyển nhượng. Việc ngân hàng chấp nhận thanh toán tiền hàng cho người xke trên cơ sở một bộ chứng từ mà chứng từ vận tải là Seaway Bill có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì khi đó người xuất khẩu mới có thể yêu cầu người chuyên chở cấp cho họ một Seaway Bill thay vì một bộ B/L như trước kia.
Quy định này của UCP 500 sẽ mở ra một khả năng sử dụng rộng rãi Seaway Bill trong tương lai.
==========